Phát hiện sớm dị tật bẩm sinh của thai nhi

Phụ nữ mang thai cần đi khám định kỳ để khám phát hiện những nguy cơ và có hướng xử trí đúng.

Phụ nữ mang thai cần đi khám định kỳ để khám phát hiện những nguy cơ và có hướng xử trí đúng.

Nguyên nhân dẫn đến dị tật ở thai nhi và trẻ sơ sinh

Sự biến đổi của môi trường, khí hậu đã có nhiều ảnh hưởng đến sự sinh sản của con người. Hiện nay, bên cạnh một số bệnh nhiễm khuẩn phổ biến, một số dị tật ở thai nhi và trẻ sơ sinh bắt nguồn từ các nguyên nhân chủ yếu sau: sai lệch di truyền (bất thường nhiễm sắc thể, rối loạn gen, rối loạn chuyển hóa...); Trong quá trình mang thai, bà mẹ tiếp xúc môi trường độc hại (hóa chất, không khí, đất, nước...); Mẹ bầu bị nhiễm virut; Sử dụng thuốc trong 3 tháng đầu của thai kỳ; Bà bầu mắc các bệnh nhiễm trùng trong khi mang thai: nhiễm trùng tiểu, nhiễm trùng sinh dục, mẹ bị tiểu đường và sử dụng insulin...

Vấn đề chẩn đoán trước sinh cho phép xác định hình thái, những bất thường về mặt cơ thể của thai nhi. Qua đó, tùy theo mức độ của từng trường hợp, các bác sĩ sẽ tiến hành khắc phục, hoặc đưa ra lời khuyên cho gia đình nên giữ hay bỏ thai cũng như cách theo dõi và chăm sóc cho bé sau sinh.

Một số phương pháp chẩn đoán trước sinh

Siêu âm độ mờ da gáy

Siêu âm độ mờ da gáy được thực hiện từ tuần thứ 11 đến tuần thứ 14 của thai kỳ. Để biết chính xác tuổi thai, bác sĩ siêu âm sẽ đo thai nhi từ đỉnh đầu đến dưới cùng của cột sống (gọi là chiều dài đầu - mông). Rồi sau đó sẽ đo độ dày của da gáy. Làn da sẽ xuất hiện như là một vạch có màu trắng, và chất dịch dưới da sẽ xem xét bằng màu đen giữa 2 vạch màu trắng.

Siêu âm thông thường được thực hiện qua đường bụng, nhưng đôi khi được thực hiện qua ngả âm đạo vì sẽ cung cấp cho hình ảnh tốt hơn.

Độ dày của da gáy bình thường lúc thai được 11 tuần khoảng 2mm và lúc thai được gần 14 tuần là khoảng 2,9mm. Độ mờ da gáy trên 4mm trẻ có nguy cơ bị hội chứng Down hoặc một số bệnh lý khác...

Cần lưu ý rằng hội chứng Down ở trẻ dựa trên tuổi mẹ phối hợp với đo độ mờ da gáy thai 11 tuần đến gần 14 tuần, nếu da gáy dày nhưng nhiễm sắc thể bình thường (trẻ không bị hội chứng Down), trẻ vẫn có nguy cơ cao bị dị tật tim thai.

Xét nghiệm Double test và Triple test

Xét nghiệm Double test và Triple test là bộ xét nghiệm giúp tầm soát nguy cơ bị hội chứng Down, nguy cơ dị tật ống thần kinh và thai nhi không có não bộ.

Để thực hiện xét nghiệm Double test, Triple test bác sĩ sẽ lấy mẫu máu thai phụ. Thời gian làm xét nghiệm Double test: thực hiện vào tuần thứ 11 -13 của thai kỳ. Xét nghiệm Triple test: thực hiện vào tuần thứ 14 đến tuần 22, tốt nhất vào tuần thứ 16 đến 18 tuần. Xét nghiệm này rất đơn giản, không ảnh hưởng đến sức khỏe của mẹ và bé.

Nếu xét nghiệm tiến hành đúng lúc, kết hợp cả xét nghiệm máu và siêu âm, thì độ chính xác cho các hội chứng Down và dị tật ống thần kinh đạt 90 - 96%.

Xét nghiệm huyết thanh thai phụ

Bác sĩ sẽ lấy máu của thai phụ để xét nghiệm. Đây là một xét nghiệm tìm 3 chất trong máu của thai phụ gồm có AFP (alpha-fetoprotein), beta-hCG toàn phần và uE3 (estriol không liên hợp). Kết quả này được tính toán cùng với cân nặng, chiều cao của thai phụ, tuổi thai... để phát hiện những nguy cơ bất thường nhiễm sắc thể và dị tật ống thần kinh ở thai nhi. Thời gian làm xét nghiệm tốt nhất từ tuần thứ 15-20, để đạt kết quả chính xác là tuần 16-18 trong thai kỳ.

Phương pháp này cho phép phát hiện những bất thường về chức năng các bộ phận của cơ thể.

Phân tích nhiễm sắc thể của thai nhi

Khảo sát và phân tích nhiễm sắc thể của thai nhi qua nuôi cấy tế bào ối nhằm phát hiện những bất thường về số lượng và cấu trúc nhiễm sắc thể, qua đó phát hiện sớm những bệnh liên quan đến nhiễm sắc thể như hội chứng Down, Turner...

Phương pháp phân tích nhiễm sắc thể của thai nhi cho hiệu quả cao với phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm, tỷ lệ thành công cao hơn, giảm tỷ lệ thai bất thường ở những thai phụ lớn tuổi, tìm ra nguyên nhân thất bại nhiều lần của thụ tinh trong ống nghiệm, sẩy thai liên tiếp, thai bị dị tật, phát hiện nhiều bệnh di truyền theo giới tính, những bệnh lý liên quan đến số lượng nhiễm sắc thể, đơn gen...

ThS. Phạm Tố Ngân